Thể thơ thất ngôn bát cú là một thể loại thơ cổ điển xuất phát từ Trung Quốc, nổi bật trong thời kỳ nhà Đường. Đây là một trong những thể thơ được coi là tinh túy nhất của thơ Đường luật, với cấu trúc nghiêm ngặt và quy tắc chặt chẽ.
Cấu trúc và đặc điểm của thể thơ thất ngôn bát cú:
Cấu trúc: Bài thơ gồm tám câu, mỗi câu bảy chữ, tổng cộng là 56 chữ.
Niêm luật: Thơ thất ngôn bát cú tuân theo niêm luật rất nghiêm ngặt, bao gồm các quy tắc về thanh điệu và đối (đối xứng) giữa các câu:
- Câu 1, 2, 4, 6, và 8 thường theo luật bằng trắc hoặc trắc bằng.
- Câu 3, 5, và 7 thường tự do hơn nhưng vẫn phải tuân theo nguyên tắc đối xứng về thanh điệu.
Đối: Các câu 3 và 4, câu 5 và 6 phải đối nhau về nghĩa và về từ loại.
Chủ đề: Thể thơ này thường được dùng để diễn tả những tình cảm sâu sắc, triết lý sống, và mô tả cảnh vật thiên nhiên.
Ví dụ minh họa:
Bước tới Đèo Ngang, bóng xế tà,
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa.
Lom khom dưới núi, tiều vài chú,
Lác đác bên sông, chợ mấy nhà.
Nhớ nước đau lòng con quốc quốc,
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia.
Dừng chân đứng lại trời, non, nước,
Một mảnh tình riêng ta với ta.
(Qua Đèo Ngang - Bà Huyện Thanh Quan)
Thể thơ thất ngôn bát cú là một thể loại thơ cổ điển nổi tiếng của Trung Quốc, đặc biệt phổ biến trong thời kỳ nhà Đường. Đây là một dạng thơ Đường luật, có cấu trúc và quy tắc rất nghiêm ngặt, góp phần quan trọng vào sự phát triển rực rỡ của thơ ca Trung Quốc.
Thể thơ thất ngôn bát cú xuất phát từ Trung Quốc cổ đại, bắt nguồn từ sự phát triển của thơ thất ngôn cổ thể. Trong giai đoạn từ thời nhà Hán (206 TCN - 220 SCN) đến nhà Tùy (581-618), thơ thất ngôn đã bắt đầu hình thành với những bài thơ có bảy chữ mỗi câu nhưng chưa có quy tắc niêm luật chặt chẽ. Đến thời nhà Đường (618-907), thể loại này mới được chuẩn hóa và phát triển thành thể thơ thất ngôn bát cú với những quy tắc cụ thể về niêm, luật và đối. Các nhà thơ nổi tiếng như Lý Bạch, Đỗ Phủ, Vương Duy và Bạch Cư Dị đã sử dụng thể thơ này để sáng tác nhiều tác phẩm xuất sắc. Thời kỳ này, thơ thất ngôn bát cú Đường Luật không chỉ phản ánh đời sống xã hội, mà còn là phương tiện để bày tỏ tình cảm cá nhân và suy tư triết lý.
Ví dụ: Bài thơ Đăng cao của Đỗ Phủ:
Phong cấp, thiên cao, viên khiếu ai,
Chử thanh, sa bạch, điểu phi hồi.
Vô biên lạc diệp tiêu tiêu hạ,
Bất tận trường giang cổn cổn lai.
Vạn lý bi thu thường tác khách,
Bách niên đa bệnh độc đăng đài.
Gian nan khổ hận phồn sương mấn,
Lạo đảo tân đình trọc tửu bôi.
Dịch thơ:
Gió mạnh trời cao vượn rúc sầu,
Bến trong cát trắng lượn đàn âu.
Lào rào lá rụng cây ai đếm,
Cuồn cuộn sông dài bước đến đâu.
Muôn dặm quê người thân não cảnh,
Một thân già yếu bước lên lầu.
Khó khăn ngao ngán bao là nỗi,
Rượu uống không ngon chóng bạc đầu.
Thơ thất ngôn bát cú Đường Luật không chỉ có ảnh hưởng lớn tại Trung Quốc mà còn lan tỏa sang các nước Đông Á khác như Nhật Bản, Hàn Quốc và Việt Nam. Ở Nhật Bản, thể thơ này được chuyển hóa thành waka và haiku, trong khi ở Việt Nam, nó được nhiều nhà thơ nổi tiếng như Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương và Nguyễn Khuyến sử dụng và phát triển thành những tác phẩm đặc sắc.
Vần: là bộ phận chủ yếu của âm tiết trong tiếng Việt là âm tiết trừ đi phụ âm đầu nếu có.
Ví dụ: “tà, hoa, nhà, gia, ta” trong bài Qua Ðèo Ngang có cùng một vần “a”.
Vần có vần bằng, vần trắc, độc vận, ép vận. Trong thất ngôn bát cú chỉ gieo 1 vần, gọi là độc vận rơi vào 5 chữ cuối của 5 câu: 1, 2, 4, 6, 8 thường là vần bằng, ít khi dùng vần trắc, 5 chữ này tránh trùng nhau, phải hiệp vận cho đúng nếu gieo sai gọi là lạc vận, gieo vần không sát gọi là gượng ép.
Ðối: là phép đặt 2 câu thơ đối nhau gồm có:
- Ðối chữ: bằng đối trắc, trắc đối bằng, danh từ đối danh từ, động từ đối động từ…
- Ðối ý: ví dụ cảnh dưới núi đối cảnh bên sông, cảnh động đối cảnh tĩnh như trong 2 câu thực của bài Qua Ðèo Ngang.
Trong thể thơ này, 2 câu thực phải đối nhau, 2 câu luận phải đối nhau.
Luật: tức thanh luật là quy tắc xếp đặt thanh bằng (B) thanh trắc (T) cho mỗi chữ trong một câu thơ theo lệ:
“Nhất tam ngũ bất luận”: bất luận là không ràng buộc,
“Nhị tứ lục phân minh”: phân minh là rõ ràng bắt buộc đồng thời phải tuân theo thanh: “nhị bằng tứ trắc lục bằng”, hay ngược lại: “nhị trắc tứ bằng lục trắc”
Âm là tiếng động phát ra khi đọc một nguyên âm. Thanh là độ cao thấp của âm. Mỗi âm trong tiếng Việt có 6 bực độ quy định bởi 6 dấu: 2 thanh BẰNG gồm trầm (dấu huyền) và phù (không dấu), bốn thanh TRẮC gồm thượng (dấu sắc, dấu ngã), và khứ hay nhập (dấu hỏi, dấu nặng).
Trong một câu thơ, tất cả những chữ cùng một thanh nên thay đổi bực độ.
Trong bài thất ngôn, chữ thứ 3 các câu chẵn và chữ thứ 5 các câu lẻ, đáng là bằng mà đổi ra trắc gọi là khổ độc (nghĩa là khó đọc). Trong 1 câu thơ, chữ nào đáng đặt tiếng bằng mà lại đặt tiếng trắc, hay đáng đặt tiếng trắc mà lại đặt tiếng bằng thì gọi là thất luật.
Niêm: nghĩa là dán cho dính lại.
Phép niêm trong thơ là quy tắc sắp xếp các câu thơ trong bài dính lại với nhau về âm điệu, hay nói một cách khác NIÊM là sự liên lạc về âm luật của 2 câu thơ với nhau. Trong bài Ðường Luật, hai câu 1 và 8, 2 và 3, 4 và 5, 6 và 7 niêm với nhau.
Trong văn học Việt Nam, thể thơ thất ngôn bát cú đã để lại dấu ấn sâu đậm với nhiều tác phẩm nổi bật của các nhà thơ danh tiếng. Dưới đây là một số bài thơ đường luật đáng chú ý và những nhà thơ tiêu biểu:
Bài thơ "Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác" của Phan Bội Châu:
Vẫn là hào kiệt, vẫn phong lưu
Chạy mỏi chân thì hãy ở tù
Đã khách không nhà trong bốn biển
Lại người có tội giữa năm châu
Bủa tay ôm chặt bồ kinh tế
Mở miệng cười tan cuộc oán thù
Thân ấy vẫn còn còn sự nghiệp
Bao nhiêu nguy hiểm sợ gì đâu.
Bài thơ "Cảnh khuya" của thi sĩ Hồ Xuân Hương:
Canh khuya văng vẳng trống canh dồn,
Trơ cái hồng nhan với nước non.
Chén rượu hương đưa, say lại tỉnh,
Vầng trăng bóng xế, khuyết chưa tròn.
Xuyên ngang mặt đất, rêu từng đám,
Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn.
Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại,
Mảnh tình san sẻ tí con con."
Bài thơ "Thu điếu" - Nguyễn Khuyến:
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo,
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo.
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,
Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo.
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt,
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.
Tựa gối, ôm cần lâu chẳng được,
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.
Những tác phẩm trên chỉ là một phần nhỏ trong số các tác phẩm xuất sắc sử dụng thể thơ thất ngôn bát cú trong văn học Việt Nam. Điều này cho thấy sức ảnh hưởng và giá trị của thể loại thơ này trong văn học nước ta.
Xem thêm:
Thể thơ lục bát - Di sản văn hóa của dân tộc Việt Nam
Các thể loại thơ trong Văn học Việt Nam tiêu biểu
Học là Giỏi hi vọng bài viết này đã giúp các bạn khám phá và hiểu sâu hơn về thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật - thể thơ tiêu biểu không thể thiếu trong văn học cổ điển Trung Quốc và Việt Nam. Có thể khẳng định rằng, thể thơ thất ngôn bát cú có một lịch sử phát triển lâu dài và phong phú, thể thơ này đã trở thành một phần quan trọng của di sản văn học Trung Quốc và có ảnh hưởng sâu rộng đến văn học các nước Đông Á khác.
Link nội dung: https://brightschool.edu.vn/tim-hieu-the-tho-that-ngon-bat-cu-tinh-hoa-tho-duong-luat-a22849.html