Xác định đối tác, đối tượng trong quan hệ quốc tế luôn là vấn đề nhạy cảm, quan trọng đối với các quốc gia - dân tộc. Trong hơn 35 năm đổi mới đất nước, việc nhận diện đối tác, đối tượng, xử lý mối quan hệ giữa đối tác, đối tượng luôn được Đảng ta quan tâm, chú trọng. Đây chính là cơ sở để Việt Nam hoạch định đường lối đối ngoại, góp phần vào công cuộc xây dựng đất nước và bảo vệ chủ quyền lãnh thổ quốc gia.
Cán bộ Đại sứ quán tại Mỹ và Phái đoàn Thường trực Việt Nam tại Liên hợp quốc đón Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc đến thành phố New York (Mỹ), bắt đầu chương trình tham dự Phiên thảo luận chung cấp cao Đại hội đồng Liên hợp quốc khóa 76 và thực hiện một số hoạt động song phương bên lề phiên họp. Ảnh: TTXVN
Đối tác trong quan hệ quốc tế giữa các quốc gia là thuật ngữ dùng để chỉ mối quan hệ cộng tác, hợp tác nhưng ở mức độ cao hơn và cụ thể hơn. Đối tác bao gồm hai hoặc nhiều bên cùng hành động nhằm: Tăng cường hợp tác, hướng đến những mục tiêu chung; xây dựng những kênh cơ bản, cơ chế giải quyết bất đồng, tranh chấp; triển khai các biện pháp thúc đẩy quan hệ; thỏa thuận phương hướng đánh giá mức độ tiến bộ; chia sẻ thành tựu hợp tác. Mối quan hệ đối tác thể hiện sự gần gũi, bình đẳng, có đi có lại. Các quan hệ đối tác khá linh hoạt về hình thức, tùy thuộc mức độ phát triển quan hệ giữa các bên.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện nay, hầu hết các quốc gia trên thế giới đều tham gia vào quá trình hội nhập, liên kết, vì chính sự phát triển của đất nước mình. Do đó, đối tác có thể hiểu là thuật ngữ chỉ mối quan hệ cộng tác, hợp tác, liên kết, phối hợp với nhau giữa hai hay nhiều bên để cùng hành động, hỗ trợ lẫn nhau thực hiện mục tiêu chung hay tương đồng của các bên. Tùy từng mức độ quan hệ mà chia thành các cấp độ khác nhau, như đối tác song phương, đối tác khu vực, đối tác quan hệ đặc biệt, đối tác chiến lược, đối tác toàn diện…
Đối tượng là thuật ngữ chỉ mối quan hệ đối kháng, đối chọi, chống đối, thù địch nhau… gây bất lợi cho việc bảo đảm lợi ích của các bên tham gia vào hoạt động nào đó. Đối tượng cũng có những quy mô, phạm vi, cấp độ khác nhau. Đối tượng của toàn nhân loại, của mỗi quốc gia, trong mỗi lĩnh vực, trong mỗi thời gian, địa điểm với những quan điểm, động thái cụ thể khác nhau.
Quan điểm của Đảng ta về đối tác, đối tượng trong chính sách đối ngoại
Trong chính sách đối ngoại của Việt Nam, việc xác định rõ “đối tác” và “đối tượng” có sự kế thừa từ truyền thống lịch sử của ông cha ta cũng như tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh về “thêm bạn, bớt thù”, là sự tiếp nối chính sách đối ngoại nhất quán đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ mà Việt Nam tiến hành từ khi bắt đầu công cuộc đổi mới đến nay. Truyền thống, tư tưởng, quan điểm, chính sách đó là dòng chảy xuyên suốt, qua các thời kỳ, giai đoạn khác nhau, được vận dụng, xử lý linh hoạt với từng đối tác, đối tượng cụ thể. Tư tưởng hòa hiếu, thêm bạn, bớt thù của ông cha ta đã được Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh kế thừa, vận dụng linh hoạt trong chính sách đối ngoại sau này.
Mười năm trước đổi mới (1976 - 1986), mối quan hệ với các nước xã hội chủ nghĩa là ưu tiên hàng đầu trong quan hệ đối ngoại của Việt Nam, trong đó Liên Xô là “bạn đồng minh hùng mạnh và vững chắc nhất của Việt Nam”, là các nước Lào, Cam-pu-chia, các nước trong cộng đồng xã hội chủ nghĩa, các nước Á-Phi, Mỹ La-tinh, là các phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, phong trào Không liên kết, các lực lượng cách mạng trên thế giới. Các đối tượng cần phải đấu tranh trong quan hệ quốc tế là các nước đế quốc, tư bản.
Có thể thấy, sự phân định đối tác, đối tượng của Đảng trong thời kỳ trước đổi mới phản ánh bối cảnh lịch sử lúc đó, khi trật tự thế giới hai cực phân tuyến bạn - thù, ta - địch, Đông - Tây rõ ràng. Do vậy, việc đánh giá về đối tác - đối tượng của Việt Nam cũng chịu ảnh hưởng bởi tư duy ý thức hệ. Đến Đại hội VI của Đảng (năm 1986) và nhất là từ Đại hội VII (năm 1991), Đảng ta đã kịp thời đổi mới tư duy, xác định đúng đắn tầm quan trọng của quan hệ với các nước lớn và các nước láng giềng cùng khu vực trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tư duy về đối ngoại đa phương của Đảng được định hình ngày một rõ nét, phát triển có hệ thống và liên tục được hoàn thiện.
Nghị quyết số 13/NQ-TW, ngày 20-5-1988, “Về nhiệm vụ và chính sách đối ngoại trong tình hình mới” là văn kiện đầu tiên của Đảng mang ý nghĩa nền tảng cho chủ trương “đa dạng hóa, đa phương hóa”; đồng thời thể hiện một bước chuyển mạnh mẽ trong tư duy và mục tiêu đối ngoại của Việt Nam, chuyển cuộc đấu tranh từ tình trạng đối đầu sang đấu tranh và hợp tác cùng tồn tại hòa bình. Nghị quyết này đánh dấu bước chuyển chiến lược về tư duy bạn - thù, là tiền đề để Đại hội VII của Đảng chính thức khẳng định phương châm “đa phương hóa, đa dạng hóa” quan hệ đối ngoại. Nhờ đó, lần lượt qua các kỳ Đại hội về sau, chủ trương đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ được bổ sung, hoàn thiện, phù hợp với tình hình mới, góp phần vào công cuộc phát triển đất nước. Thực tiễn triển khai chính sách đối ngoại đa phương của Việt Nam là một minh chứng cho thấy chủ trương đó là kịp thời, đúng đắn, sát hợp tình hình, thể hiện đổi mới tư duy đối ngoại của Đảng, góp phần từng bước nâng cao vị thế, vai trò Việt Nam trong khu vực và trên trường quốc tế.
Bước chuyển đổi mới tư duy đối ngoại của Đảng ta xuất phát từ các yếu tố:
Trước hết, nhu cầu đẩy mạnh quan hệ hợp tác quốc tế của Việt Nam với các nước. Trước Đại hội VI của Đảng, Việt Nam rơi vào khủng hoảng toàn diện về kinh tế - xã hội; đất nước bị bao vây, cô lập; quan hệ với Trung Quốc chưa được cải thiện. Để thoát khỏi tình thế hiểm nghèo, Đảng ta đã quyết định tiến hành đổi mới toàn diện trên tất cả các lĩnh vực, từng bước khai thông quan hệ với các nước trong khu vực và trên thế giới. Việc giải quyết vấn đề Campuchia năm 1989 đã giúp Việt Nam gạt bỏ trở ngại quan trọng trong quá trình tìm kiếm thêm bạn bè và trên thực tế đã tạo sự xoay chuyển căn bản trong quan hệ hợp tác quốc tế của Việt Nam. Hơn nữa, trong hoàn cảnh hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa đang gặp khó khăn, ngoài nhu cầu thoát khỏi tình trạng bị bao vây, cấm vận, Việt Nam còn có thêm nhu cầu mở rộng quan hệ với cả các nước ngoài khối xã hội chủ nghĩa. Tuyên bố của Đại hội VII (năm 1991): Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển, là sự khẳng định mong muốn đó.
Thứ hai, tình hình thế giới, khu vực cuối những năm 80, đầu những năm 90 của thế kỷ XX. Sự sụp đổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu vào cuối những năm 80, đầu những năm 90 của thế kỷ XX đã tác động sâu sắc đến việc đổi mới tư duy của Đảng về quan niệm đối tác - đối tượng. Sự kết thúc của Chiến tranh lạnh tạo ra những điều kiện khiến xu thế hòa dịu, hòa hoãn trở nên chiếm ưu thế trong quan hệ giữa các quốc gia, dân tộc trên thế giới; tạo những tiền đề cho sự hình thành xu thế đa dạng hóa, đa phương hóa, hội nhập khu vực và quốc tế. Một trật tự thế giới mới theo hướng đa cực đã dần hình thành. Cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật và công nghệ đã tạo ra những thay đổi lớn trong đời sống quốc tế. Toàn cầu hóa trở thành một xu thế tất yếu, khách quan mà không một nước nào trên thế giới có thể đứng ngoài lề nếu không muốn bị tụt hậu.
Thứ ba, các nước trên thế giới đều điều chỉnh chiến lược quốc gia, chuyển hướng chính sách đối ngoại để thích nghi và giành chủ động ở mức độ nhất định trong môi trường quốc tế mới. Lý do sự chuyển hướng này là bởi những biến động to lớn từ sự thay đổi chế độ xã hội ở một loạt nước Đông Âu và Liên Xô, dẫn tới phá vỡ cục diện hai phe, hai cực. Trong giai đoạn chuyển tiếp từ trật tự thế giới cũ sang trật tự thế giới mới, các nước xuất phát từ lợi ích quốc gia - dân tộc, đều điều chỉnh lại chính sách, tìm kiếm điều kiện thuận lợi nhằm tối đa hóa lợi ích của mình. Các nước lớn chủ trương tăng cường hợp tác và chủ động cải thiện quan hệ với nhau; đều tìm kiếm cơ hội riêng cho mình trong bối cảnh mới, tránh xung đột, đối đầu. Một số khuôn khổ hợp tác đã được hình thành, được sử dụng để chế ngự phát sinh mâu thuẫn và xung đột lợi ích mới.
Thứ tư, khu vực châu Á - Thái Bình Dương có những thay đổi tích cực theo hướng thiết lập và tăng cường liên kết, mở rộng hợp tác để phát triển; xu hướng vừa hợp tác, vừa đấu tranh, giải quyết các xung đột bằng biện pháp hòa bình ngày càng trở nên rõ nét.
Tất cả những yếu tố trên đây là những điều kiện để từ đó Việt Nam có những bước đổi mới tư duy đối ngoại, triển khai đường đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, trong đó có đổi mới tư duy về đối tác - đối tượng. Nghị quyết Trung ương 8 khóa IX (năm 2003) về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới” đã khái quát thành nguyên tắc, thể hiện cách nhìn nhận mới và thống nhất về đối tác, đối tượng, đã đưa ra một số phương châm chỉ đạo trong việc xác định đối tác - đối tượng, cụ thể là: Phải trên tinh thần thêm bạn, bớt thù, phân hóa, cô lập các thế lực thù địch chống đối, tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân tiến bộ trên thế giới. Mười năm sau, Nghị quyết số 28-NQ/TW của Hội nghị Trung ương 8, khóa XI về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới” (năm 2013) đã đưa nguyên tắc trên thành quan điểm: Đối tác là những ai tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, thiết lập và mở rộng quan hệ hữu nghị, hợp tác, bình đẳng, cùng có lợi với Việt Nam đều là đối tác. Tuy nhiên, trong đối tác cần phân rõ thành các nhóm để có chủ trương và sách lược quan hệ, hợp tác. Đối tượng là “bất kỳ thế lực nào có âm mưu và hành động chống phá mục tiêu của nước ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều là đối tượng của chúng ta”.
Trên cơ sở nhận thức về đối tác, đối tượng ngày càng sáng rõ, linh hoạt, uyển chuyển, biện chứng hơn, Nghị quyết số 28-NQ/TW nhấn mạnh cần có cách nhìn biện chứng trong sự tồn tại đan xen và chuyển hóa lẫn nhau giữa đối tác và đối tượng. Theo đó, trong mỗi đối tác có thể có mặt mâu thuẫn với lợi ích của ta cần phải đấu tranh; trong mỗi đối tượng vẫn có thể có mặt đồng thuận cần tranh thủ hợp tác. Nhận thức biện chứng trong xác định đối tác, đối tượng đó đã mở ra điều kiện thuận lợi cho quan hệ hợp tác quốc tế, bảo đảm tranh thủ ngày càng tốt hơn sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế đối với công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước. Trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực diễn biến phức tạp, khó lường; tranh chấp chủ quyền, lãnh thổ, biên giới, biển đảo, nhất là ở Biển Đông diễn ra gay gắt; các thế lực thù địch đẩy mạnh các hoạt động chống phá cách mạng nước ta bằng chiến lược “diễn biến hòa bình”, việc xác định rõ đối tác, đối tượng là cơ sở để xác định đường lối đối ngoại cụ thể, phù hợp tình hình.
Có thể thấy, từ chỗ phân định rạch ròi theo khái niệm “địch - ta”, Đảng ta chuyển sang cách tiếp cận biện chứng, sang tư duy đối tác và đối tượng trên cơ sở lợi ích quốc gia - dân tộc; thấy rõ sự đan xen, chuyển hóa giữa đối tượng, đối tác; xác định lấy đối tác làm cơ sở để thiết lập quan hệ quốc tế; đồng thời, đấu tranh với đối tượng, với mặt đối tượng. Phương châm “đối tác - đối tượng” là cơ sở để xử lý một cách hiệu quả các quan hệ lợi ích đa chiều, phức tạp hiện nay. Khi đã là bạn, là đối tác tin cậy với các nước, để bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc, cần nhận thức rõ trong đối tác có đối tượng và trong đối tượng có đối tác. Phương châm này giúp ta tận dụng cơ hội hợp tác; đồng thời, thấy rõ hơn sự khác biệt về lợi ích để tìm các giải pháp đưa quan hệ phát triển, không bỏ lỡ cơ hội hợp tác nhưng cũng không lơ là, mất cảnh giác. Đây cũng là một định hướng quan trọng để nhiệm vụ đối ngoại gắn kết chặt chẽ với nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc.
Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Bùi Thanh Sơn tham dự Diễn đàn An ninh khu vực (ARF) lần thứ 28 theo hình thức trực tuyến, tháng 8-2021. Ảnh: TTXVN
Một số vấn đề đặt ra hiện nay trong xử lý mối quan hệ giữa đối tác - đối tượng
Hiện nay, sự va chạm, cọ xát lợi ích giữa các nước lớn ngày càng quyết liệt. Đồng thời, những chuyển động trong quan hệ giữa các nước lớn chi phối sự vận động, phát triển của cục diện khu vực và thế giới. Sự hợp tác đan xen cạnh tranh đều xoay quanh trục lợi ích, lấy lợi ích là thước đo cao nhất trong quan hệ giữa các nước, nhất là các nước lớn, khiến quan hệ quốc tế trở nên khó dự báo, tạo ra cơ hội lẫn thách thức đối với các nước trong thúc đẩy quan hệ hợp tác và hội nhập quốc tế. Điều này thể hiện rõ trong nhận định của Đại hội XIII của Đảng: “Cục diện thế giới tiếp tục biến đổi theo xu hướng đa cực, đa trung tâm; các nước lớn vẫn hợp tác, thỏa hiệp, nhưng đấu tranh, kiềm chế lẫn nhau gay gắt hơn. Chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa cường quyền nước lớn, chủ nghĩa thực dụng trong quan hệ quốc tế gia tăng. Các nước đang phát triển, nhất là các nước nhỏ đứng trước nhiều khó khăn, thách thức mới”1.
Bối cảnh tình hình thế giới cùng những thay đổi trong nhận thức của các quốc gia đã đưa đến việc hình thành nhiều loại hình quan hệ đối tác, đồng minh; đồng thời, cũng đặt ra nhiều vấn đề cần giải quyết trong xử lý quan hệ giữa các quốc gia.
Trong bối cảnh các nước lớn cạnh tranh với nhau ngày càng gay gắt, sự đổi ngôi của các nền kinh tế hàng đầu thế giới, xu thế tập hợp lực lượng để tranh giành ảnh hưởng, trở thành các cực trong một cục diện thế giới mới, cùng với đó là các quốc gia - dân tộc đều đặt lợi ích của mình lên trên hết, khiến việc xác định đối tác, đối tượng, các mặt đối tác trong đối tượng và các mặt đối tượng trong đối tác trên thực tế rất khó khăn, phức tạp. Thêm vào đó, việc xác định đối tượng, đối tác còn là vấn đề tương đối “nhạy cảm” trong quan hệ quốc tế.
Ở trong nước, sau hơn 35 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Tiềm lực, cơ đồ, vị thế của Việt Nam ngày càng được khẳng định. Việc thiết lập được một mạng lưới 30 đối tác chiến lược và toàn diện, đảm nhận thành công nhiều trọng trách trong các tổ chức thế giới và khu vực đã mang lại cho đất nước một diện mạo mới, sức vóc mới. Tuy nhiên, tình hình trong nước vẫn đang đứng trước nhiều thách thức lớn đan xen và diễn biến phức tạp. Trong quan hệ với một số đối tác, chúng ta vẫn còn phải đối phó với những tình huống phức tạp, khó lường. Bên cạnh đó, Việt Nam tiếp tục là trọng điểm trong chiến lược chống phá của các thế lực thù địch, thông qua chiến lược “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ…
Trong bối cảnh mới của thế giới, khu vực, để có chính sách xử lý đối với đối tác, đối tượng, cần thiết nhận dạng hai yếu tố này trong mối quan hệ biện chứng, để từ đó có những định hướng chính sách phù hợp.
Thứ nhất, xem xét hai yếu tố đối tác, đối tượng cần đặt trong chỉnh thể thống nhất. Đối tác, đối tượng là hai mặt của một vấn đề, trong một số đối tác vẫn có thể có mặt khác biệt, mâu thuẫn; và trong mỗi đối tượng vẫn có những mặt có thể tranh thủ, hợp tác. Do vậy, việc xác định đối tác, đối tượng tùy theo từng tình huống, hoàn cảnh, thời điểm cụ thể, không cứng nhắc.
Khi đã nhận thức về đối tác và đối tượng trong cùng một chủ thể thì phải lấy mục tiêu bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc làm tiêu chuẩn để quyết định mức độ quan hệ hợp tác. Nghĩa là, trong khi mở rộng quan hệ hợp tác với đối tác cần nêu cao tinh thần cảnh giác phát hiện các mâu thuẫn có thể nảy sinh để kịp thời đấu tranh. Đồng thời, trong đấu tranh với đối tượng không có nghĩa là phân tuyến đối đầu mà cần tranh thủ mọi cơ hội tìm hiểu, tạo lòng tin để đi đến tôn trọng độc lập, chủ quyền của nhau và mở rộng hợp tác bình đẳng cùng có lợi.
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay đòi hỏi chúng ta phải hết sức tỉnh táo, nhạy bén. Ngay trong những đối tác cũng có cấp độ quan hệ khác nhau, như đối tác, đối tác toàn diện, đối tác chiến lược và đối tác chiến lược toàn diện. Ngay với đối tượng cũng có đối tượng trong thời điểm nhất định, có đối tượng cơ bản, lâu dài. Thực tế cho thấy, trong quan hệ quốc tế, với một quốc gia cụ thể, ở thời điểm, giai đoạn, lĩnh vực này là đối tượng, nhưng vào thời điểm, giai đoạn, lĩnh vực khác lại có thể trở thành đối tác. Thậm chí giữa những nước có thể chế chính trị khác nhau hoặc giữa những nước tồn tại tranh chấp chủ quyền với nhau lại có thể thành đối tác, đối tác chiến lược. Ngược lại, không ít quốc gia, tuy trước đây là đồng minh nhưng ở vào thời điểm cụ thể, lĩnh vực nhất định vẫn có thể là đối tượng của nhau.
Thứ hai, việc xác định tính chất đối tượng ngày nay cũng “mềm” hơn, uyển chuyển hơn, không cứng nhắc dựa vào ý thức hệ như trước, xem mọi mối quan hệ theo khuôn khổ “địch - ta”. Trong giai đoạn toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng hiện nay, đối tác của chúng ta không chỉ khuôn hẹp trong hệ thống xã hội chủ nghĩa, các nước cùng “phe” với ta, mà đa dạng, mở rộng quan hệ đối ngoại với tất cả các nước trên thế giới có chế độ chính trị khác nhau. Do vậy, có những nước vừa là đối tác của ta, nhưng đồng thời vừa là đối tượng mà ta cần đấu tranh trên một số lĩnh vực cụ thể.
Trên thực tế, tính chất “đối tượng” ngày nay cũng “cởi mở” hơn đối với các nước. Trong những năm gần đây, do tác động của cạnh tranh, tranh giành quyền lực nước lớn và một số nhân tố nội bộ các nước, xu hướng tập hợp lực lượng vận động theo các hướng phức tạp khác nhau, tác động nhiều chiều đến cục diện, cấu trúc khu vực cũng như mỗi quốc gia trong khu vực. Mối quan hệ giữa các quốc gia hiện nay ngày càng đa dạng, phức tạp. Xu hướng tập hợp lực lượng, liên kết đồng minh, từ cấp độ tiểu khu vực đến toàn cầu, từ hai bên đến nhiều bên, từ chặt chẽ đến lỏng lẻo, từ chiến lược đến ngắn hạn… ngày một rõ nét, chi phối các mối quan hệ giữa các nước trên thế giới. Tập hợp lực lượng xuất phát từ các mục tiêu khác nhau. Do vậy, để có thể liên minh, liên kết với nhau, các nước không nhất thiết phải có cùng hệ thống chính trị. Những liên kết kinh tế - thương mại trở thành công cụ quan trọng trong cạnh tranh chiến lược ngày càng quyết liệt giữa các nước lớn nhằm giành quyền dẫn dắt, tập hợp lực lượng ở các khu vực.
Việc xác định tính chất “mở” trong các đối tượng sẽ giúp chúng ta có cách nhìn nhận, xử lý linh hoạt hơn, tạo cơ sở cho hoạch định đường lối phát triển. Đồng thời với đó, để giành được lợi ích tối đa trong quá trình hợp tác với các đối tác, Việt Nam cũng phải là đối tác tin cậy, có trách nhiệm đóng góp vào công việc chung của khu vực và thế giới, bởi trong quan hệ quốc tế, sự “có đi, có lại” là cơ sở tạo lập mối quan hệ bền vững, lâu dài.
Thứ ba, đối tác - đối tượng là mối quan hệ có tính chất mềm dẻo, đan xen, chuyển hóa lẫn nhau. Do vậy, cần thấy rõ tính biện chứng, cũng như sự linh hoạt giữa hai mặt đối tác và đối tượng, nhận thức rõ sự “chuyển hóa mềm” trong cặp quan hệ đối tác - đối tượng. Trong khi đấu tranh đẩy lùi mặt đối tượng cần tận dụng mặt đối tác, dù là nhỏ nhất, tạm thời nhất để có thể hạn chế mặt đối tượng, từng bước biến đổi đối tượng thành đối tác. Tuyệt đối tránh cách nhìn nhận, đánh giá phiến diện về đối tác, đối tượng. Nếu chỉ coi trọng xác định mặt tích cực mà không thấy mặt tiêu cực cùng những mâu thuẫn của đối tác là không đúng. Tương tự, chỉ thấy mặt tiêu cực, những mâu thuẫn, bất đồng, không thấy mặt tích cực, tương đồng trong từng đối tượng cũng là nhận thức sai. Đây là một nhận thức hết sức quan trọng giúp chúng ta thúc đẩy quan hệ, đổi mới trong xác định hình thức, nội dung quan hệ của các nước. Đặc biệt, trong quan hệ với các nước phát triển, nhận thức này là cơ sở để ta thúc đẩy quan hệ hợp tác trên các mặt quan trọng đối với công cuộc đổi mới của đất nước, như tranh thủ nguồn vốn, khoa học, công nghệ, kinh nghiệm xử lý các vấn đề toàn cầu, quản lý đất nước. Sự “chuyển hóa mềm” này xuất phát từ chính mục tiêu, lợi ích của nước đó, đồng thời cũng được thúc đẩy bởi chính sách đối ngoại của Việt Nam. Do vậy, về phía Việt Nam, để có thể thúc đẩy sự “chuyển hóa mềm”, tận dụng mặt thuận lợi của “đối tượng”, giảm tính chất “đối tượng”, nâng cao hiệu quả của quan hệ “đối tác”, cần tăng cường nội lực, bản lĩnh, độc lập, tự chủ, kiên quyết không để đất nước rơi vào thế bị động, bất ngờ hoặc đối đầu, cô lập. Tận dụng cơ hội để khai thác những điểm tương đồng; đồng thời, nhận rõ những điểm còn tồn tại, bất đồng, thách thức để hóa giải, chủ động đối phó. Tính chất đan xen, sự chuyển hóa giữa đối tác và đối tượng đòi hỏi phải vận dụng một cách linh hoạt, sáng tạo quan điểm của Đảng vào thực tiễn, vừa trên cơ sở tuân thủ nguyên tắc, vừa phù hợp với điều kiện hoàn cảnh cụ thể, tránh áp dụng một cách máy móc, cứng nhắc làm tổn hại tới quan hệ với các nước, qua đó, tổn hại đến lợi ích quốc gia - dân tộc.
Trưởng đoàn Việt Nam, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Lê Hoài Trung (giữa bên trái) nhận lời chúc mừng của đại diện ngoại giao các nước sau khi Việt Nam được bầu là Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2020 - 2021, ngày 7-6-2019. Ảnh: Tư liệu
Thứ tư, trong đối tác cần phân rõ thành các nhóm để có chủ trương và sách lược quan hệ, hợp tác. Cần xác định rõ và có đối sách mềm dẻo, để vừa tăng cường hợp tác, tạo thế đan xen lợi ích chiến lược giữa nước ta với các nước trên thế giới, nhất là các nước lớn, các nước có quan hệ đối tác chiến lược, các nước láng giềng, bạn bè truyền thống...
Thứ năm, trên cơ sở nhận diện rõ đối tác, đối tượng, cần có cách ứng xử khôn khéo, linh hoạt, tùy thời điểm, tình thế, tùy từng đối tác, đối tượng cụ thể, vừa hợp tác, vừa đấu tranh bằng các biện pháp phù hợp. Hợp tác nhưng vẫn giữ độc lập, chủ quyền; đấu tranh nhưng vẫn phải bảo đảm duy trì cục diện ổn định - phát triển, cục diện chính trị - ngoại giao tổng thể cũng như quan hệ hợp tác. Đối với các đối tượng, chúng ta vừa kiên trì, mềm dẻo, biết người, biết mình, giữ hòa hiếu, nhưng kiên quyết, cứng rắn trong giữ vững chủ quyền lãnh thổ, bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc. “Thực tiễn cho thấy, giữa các đối tượng trên thế giới thường không phải lúc nào lợi ích cũng trùng hợp nhau, và khi không trùng hợp, mỗi đối tượng tìm cách bảo vệ lợi ích của mình. Vì vậy, trong quan hệ quốc tế, với bất cứ đối tượng nào đều có hai mặt hợp tác và đấu tranh. Hợp tác một chiều hoặc đấu tranh một chiều đều dẫn đến tình huống thua thiệt, bất lợi”2. Với tinh thần “khép lại quá khứ, hướng tới tương lai”, Việt Nam sẵn sàng hợp tác, là đối tác tin cậy, tranh thủ những mặt thuận lợi trong mối quan hệ song phương để phục vụ công cuộc phát triển đất nước. Trong khi tăng cường quan hệ đối tác, chúng ta vẫn kiên trì đấu tranh, giải quyết thỏa đáng các vấn đề nảy sinh, các tình huống phức tạp, mâu thuẫn, bất đồng, góp phần giữ vững và củng cố môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước. Xử lý mối quan hệ đối tác, đối tượng trên quan điểm tổng thể, lấy lợi ích cơ bản, lâu dài của quốc gia, dân tộc làm nền tảng; không vì lợi ích cục bộ, trước mắt mà làm tổn hại đến lợi ích lâu dài.
Thứ sáu, nhận thức về đối tác, đối tượng là vấn đề cơ bản, lâu dài, thường trực, đòi hỏi phải luôn có sự chuẩn bị, có chiến lược và chính sách tổng thể và cho từng giai đoạn. Để có nhận thức đúng về đối tác, đối tượng, chúng ta cần coi trọng công tác nghiên cứu, dự báo chiến lược, nhất là nghiên cứu, nắm vững tính chất, đặc điểm của từng đối tác, đối tượng, các khả năng, nguy cơ, thách thức có thể tác động trực tiếp tới hòa bình, ổn định của đất nước (cả trước mắt và lâu dài); từ đó, có những chính sách ứng phó hiệu quả.
Mục tiêu cơ bản, lâu dài trong nhận thức và vận dụng quan điểm về đối tác, đối tượng là nhằm không ngừng tăng cường đoàn kết, mở rộng quan hệ hợp tác hữu nghị với bè bạn quốc tế, khai thác mặt đối tác, ngăn ngừa, hạn chế, thu hẹp mặt đối tượng. Đấu tranh phê phán, bác bỏ quan điểm, tư tưởng nhận thức máy móc, khô cứng, khi xem đối tác chỉ là để hợp tác và coi đối tượng chỉ là để cô lập, đấu tranh. Nhận thức đúng mối quan hệ đối tác, đối tượng là định hướng rất quan trọng để chúng ta xử lý các vấn đề, các tình huống trong quan hệ hợp tác quốc tế một cách đúng đắn, linh hoạt, sáng tạo. Qua đó, tăng mặt đồng thuận, giảm thiểu bất đồng trong quan hệ quốc tế nhằm mục tiêu vì lợi ích quốc gia, dân tộc, đưa nước ta không ngừng phát triển, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, góp phần giữ vững hòa bình, ổn định trong khu vực và trên thế giới./.
Hoa Nguyễn
Theo Tạp chí Cộng sản
Tâm Trang (st)
-
1. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2021, t I, tr. 105-1062. Hồng Hà: “Tình hình thế giới và chính sách đối ngoại của ta”, Tạp chí Cộng sản, số 12-1992, tr. 13
Link nội dung: https://brightschool.edu.vn/mot-so-van-de-ve-doi-tac-doi-tuong-trong-tinh-hinh-moi-hien-nay-a23626.html